Động vật đáy là gì? Các công bố khoa học về Động vật đáy

Động vật đáy là nhóm động vật sống ở dưới đáy biển hoặc các khung cảnh nước ngọt, bao gồm các loài như cá, giun, sứa, hàu, sò, tôm, cua, ốc, và nhiều loại tảo v...

Động vật đáy là nhóm động vật sống ở dưới đáy biển hoặc các khung cảnh nước ngọt, bao gồm các loài như cá, giun, sứa, hàu, sò, tôm, cua, ốc, và nhiều loại tảo và vi khuẩn khác. Chúng thích nghi với môi trường sống có nhiều chất bùn và thức ăn phong phú được tìm thấy dưới đáy nước. Một số loài đáy cũng có khả năng thích ứng với ánh sáng thấp hoặc không có ánh sáng tại các môi trường sâu. Do sống ở dưới đáy, nhiều loài động vật đáy có thiết kế cơ thể phù hợp để đào hang hoặc lấp đầy trong cát hoặc bùn để tránh kẻ thù hoặc săn mồi.
Động vật đáy có nhiều đặc điểm thích nghi với môi trường sống dưới đáy biển hoặc nước ngọt.

1. Cá đáy: Đây là nhóm động vật đáy phổ biến nhất. Có nhiều loài cá đáy có tên gọi như cá bơn, cá hồng, cá mú, cá chọi... Chúng thích nghi với môi trường sống có nhiều cát, đá, tảo và đủ thức ăn. Một số loài cá đáy có màu sắc tương đồng với môi trường xung quanh để che mờ bản thân và tránh kẻ thù.

2. Giun: Đây là nhóm động vật đáy có thân hình dạng trụ, tích hợp nhiều chức năng để đào hang và di chuyển trong cát hoặc bùn. Giun thường có chân, những bộ phận hớp giúp chúng đào hang, và các râu trên đầu giúp cảm nhận thức ăn.

3. Sứa: Sứa thích nghi với môi trường sống ở nước biển. Chúng có thể di chuyển bằng cách đẩy nước thông qua thân mình. Sứa đáy thường có hình dạng mảnh mai và có gai và chuỗi tentacle cỡ lớn treo xuống để bắt mồi.

4. Hàu và Sò: Hàu và sò là những loài động vật cung cấp thức ăn quan trọng cho nhiều động vật khác. Chúng sống gần bề mặt đáy, có khả năng lọc nước để thu thập một lượng lớn vi khuẩn và tảo làm thức ăn.

5. Tôm, cua và ốc: Đây là nhóm động vật đáy thích nghi với môi trường sống biển. Chúng có thể di chuyển bằng các cặp chân và tay chân, và được sử dụng để săn mồi hoặc đào hang.

Động vật đáy có một vai trò quan trọng trong hệ sinh thái biển và nước ngọt. Chúng thường là nguồn thức ăn cho các loại động vật khác và cũng giữ vai trò trong tái chế chất hữu cơ từ phần còn lại của các sinh vật khác. Đồng thời, các loài động vật đáy cũng là chỉ báo quan trọng để đánh giá sự thay đổi trong môi trường sống biển và nước ngọt.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "động vật đáy":

ĐA DẠNG THÀNH PHẦN LOÀI ĐỘNG VẬT ĐÁY (ZOOBENTHOS) Ở SÔNG TRUỒI, HUYỆN PHÚ LỘC, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
Nghiên cứu về thành phần loài động vật đáy ở sông Truồi, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế được thực hiện trên 7 điểm thu mẫu. Kết quả phân tích mẫu vật từ tháng 1/2013 – 2/2014 đã xác định được 55 loài trai, ốc, tôm, cua, giun ít tơ, giun nhiều tơ và ấu trùng côn trùng ở nước thuộc 31 họ, 48 giống, 14 bộ và 03 ngành. Trong đó, lớp giun nhiều tơ có 4 loài thuộc 3 giống, 3 họ và 2 bộ; lớp giun ít tơ có 2 loài, 2 giống, 2 họ và 1 bộ; lớp Chân bụng (Gastropoda) có 9 loài thuộc 4 họ, 2 bộ, 8 giống; lớp Hai mảnh vỏ (Bivalvia) có 5 loài thuộc 5 họ, 3 bộ, 5 giống; lớp Giáp xác (Crustacea) với 8 loài thuộc 5 giống, 3 họ, 1 bộ; lớp Côn trùng (Insecta) có 27 loài thuộc 25 giống, 14 họ, 5 bộ. Tính bình quân, mỗi bộ có 2,21 họ, 3,42 giống và 3,92 loài. Mỗi họ chứa 1,54 giống, 1,77 loài và mỗi giống chứa 1,14 loài
ĐẶC TRƯNG NGUỒN LỢI ĐỘNG VẬT ĐÁY ĐẦM ĐỀ GI, TỈNH BÌNH ĐỊNH
Đặc trưng nguồn lợi động vật đáy đầm Đề Gi được xác định thông qua 4 chuyến điều tra khảo sát từ năm 2009 - 2011 và 2015. Kết quả nghiên cứu đã xác định được 10 loài động vật đáy có giá trị kinh tế chủ yếu trong đầm Đề Gi, trong đó gồm: 5 loài hai mảnh vỏ (Bivalvia), 1 loài chân bụng (Gastropoda) và 4 loài giáp xác (Crustacea). Nhóm hai mảnh vỏ chiếm 64% tổng sản lượng khai thác thương phẩm động vật đáy (1.037,5 tấn/năm), trong đó Gari elongata chiếm 71% tổng sản lượng hai mảnh vỏ và chiếm 45% tổng sản lượng động vật đáy. Sản lượng giống hai mảnh vỏ (Crassostrea cf. lugubris) chiếm tới 87% tổng sản lượng giống động vật đáy (4.133.600 con/năm). Penaeus monodon loài nguồn lợi động vật đáy đặc trưng của đầm Đề Gi (300.000 nghìn con/năm). Đa số nguồn lợi động vật đáy phân bố trên mặt đáy, sinh sống ở vùng triều và tập trung chủ yếu ở bãi triều đáy cát. Kết quả nghiên cứu này cung cấp cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu sâu hơn về chuỗi, lưới thức ăn và cung cấp dữ liệu cho quy hoạch, phân vùng và khai thác nguồn lợi thủy sản hợp lý.
#Benthic animal resources #De Gi lagoon.
VẬN DỤNG GIÁO DỤC STEM VÀO DẠY HỌC CHỦ ĐỀ THỰC VẬT VÀ ĐỘNG VẬT Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC THEO CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THÔNG 2018
STEM được đưa vào chương trình giảng dạy ở trường tiểu học giúp các em vừa học vừa giải trí qua việc tích hợp lý thuyết với thực hành sáng tạo liên quan tới bài học. Khi vận dụng giáo dục STEM vào dạy học các môn học cho học sinh tiểu học, các em sẽ được học bằng các công cụ trực quan và được trang bị những kiến thức thực tế để có thể áp dụng ngay làm ra sản phẩm. Cách học này trở nên hấp dẫn trẻ khi được trải nghiệm, khiến cho các giờ học trở nên thú vị và thu hút hơn. Đặc biệt, nội dung kiến thức của chủ đề Thực vật và động vật nói riêng và môn tự nhiên và xã hội, môn khoa học ở trường tiểu học có nhiều thuận lợi để tổ chức dạy học theo chủ đề STEM nhằm phát triển năng lực người học. Trong bài báo này, chúng tôi đề cập đến vận dụng giáo dục STEM vào dạy học chủ đề Thực vật và động vật trong môn Khoa học lớp 5 theo chương trình giáo dục phổ thông năm 2018.
#Giáo dục STEM #chủ đề thực vật và động vật #khoa học lớp 5
HIỆU QUẢ MÔ HÌNH QUẢN TRỊ CHI PHÍ DÒNG CHẢY NGUYÊN VẬT LIỆU TRONG DÂY CHUYỀN CHẾ BIẾN THỦY SẢN
MFCA (Material Flow Cost Accounting) là công cụ quản lý dòng chảy nguyên vật liệu và chỉ ra tầm quan trọng của thông tin MFCA cho việc tối ưu hóa các quá trình sản xuất. Nghiên cứu tập trung vào việc kết hợp chu trình PDCA (Plan – Do – Check – Act), phương pháp sản xuất sạch hơn(SXSH) và trọng tâm của mô hình quản trị chi phí dòng chảy nguyên vật liệu (MFCA) để nhận diện những tổn thất trong sản xuất, nhằm mục đích tìm ra nguyên nhân gây tổn thất nguyên vật liệu, nâng cao hiệu quả sử dụng, giảm thiểu chất thải ra môi trường, và tiết kiệm được chi phí sản xuất. Kết quả thử nghiệm nghiên cứu mô hình MFCA cho thấy chi phí tổn thất vật liệu của dòng chất thải thực tế chiếm tới 58.92% tổng chi phí sản xuất, cao hơn rất nhiều so với khi hạch toán theo cách truyền thống.
#mô hình MFCA #MFCA trong chế biến thủy sản #sản xuất sạch hơn #tối ưu hóa quá trình sản xuất #phương pháp kết hợp
NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN LOÀI ĐỘNG VẬT ĐÁY VÙNG BỜ BIỂN HẢI PHÒNG - CÁT BÀ
Thành phần động vật đáy ở khu vực bờ biển Hải Phòng - Cát Bà đã được tiến hành tháng 11-12/2020. Kết quả đã phát hiện 152 loài, thuộc 116 giống, 71 họ, 26 bộ thuộc 10 lớp (Polychaeta, Merostomata, Thecostraca, Malacostraca, Scaphopoda, Bivalvia, Gastropoda, Cephalopoda, Holothuroidea, and Actinopteri) và 5 ngành (Annelida, Arthropoda, Mollusca, Echinodermata and Chordata). Trong đó, hai mảnh vỏ có số lượng loài lớn nhất (8 bộ, 22 loài, 44 giống, 56 loài, chiếm 36.84%), tiếp theo là Thân mềm Chân bụng (6 bộ, 25 họ, 38 giống, 53 loài, chiếm 34,87%), thứ 3 là nhóm Chân khớp (3 bộ, 14 họ, 24 giống và 33 loài, chiếm 21.71%). Các nhóm khác có từ 1 đến 2 loài. Từ kết quả cho thấy, khu vực vùng bờ biển Hải Phòng - Cát Bà có thành phần loài tương đối đa dạng, thành phần chủ yếu là Bivalvia, Gastropoda và Malacostraca chiếm khoảng 95,4% tổng số loài đã xác định. Chỉ số đa dạng sinh học ở khu vực vùng bờ Hải Phòng có chỉ số đa dạng sinh học ở mức độ thấp (H’ = 2,39).
#Hai Phong #Cat Ba #Zoobenthos #Bivalvia #Malacostraca #Crustacea #Gastropoda.
Áp dụng chỉ số sinh trưởng (MI) của tuyến trùng (Nematoda) làm chỉ thị đánh giá chất lượng nước ở kênh Khe Đôi và kênh nước thải nuôi tôm tại khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ, TP Hồ Chí Minh
1024x768 Áp dụng chỉ số sinh trưởng MI của quần xã Tuyến trùng sống tự do tại kênh Khe Đôi và kênh chứa nước thải của đầm nuôi tôm trong khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ, TP Hồ Chí Minh để làm chỉ thị nghiên cứu chất lượng trong mùa mưa 2012. Kết quả nghiên cứu quần xã Tuyến trùng ở đây cho thấy có 57 giống, 15 họ, 6 bộ. Chỉ số MI cho thấy rạch Khe Đôi có chất lượng nước tốt hơn so với kênh chứa nước thải nuôi tôm. Normal 0 false false false /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;}
#chỉ số MI #tuyến trùng #Cần Giờ #chỉ thị #mật độ #chất lượng nước #động vật đáy
NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN LOÀI ĐỘNG VẬT ĐÁY VÙNG BỜ BIỂN HẢI PHÒNG - CÁT BÀ
Thành phần động vật đáy ở khu vực bờ biển Hải Phòng - Cát Bà đã được tiến hành tháng 11-12/2020. Kết quả đã phát hiện 152 loài, thuộc 116 giống, 71 họ, 26 bộ thuộc 10 lớp (Polychaeta, Merostomata, Thecostraca, Malacostraca, Scaphopoda, Bivalvia, Gastropoda, Cephalopoda, Holothuroidea, and Actinopteri) và 5 ngành (Annelida, Arthropoda, Mollusca, Echinodermata and Chordata). Trong đó, hai mảnh vỏ có số lượng loài lớn nhất (8 bộ, 22 loài, 44 giống, 56 loài, chiếm 36.84%), tiếp theo là Thân mềm Chân bụng (6 bộ, 25 họ, 38 giống, 53 loài, chiếm 34,87%), thứ 3 là nhóm Chân khớp (3 bộ, 14 họ, 24 giống và 33 loài, chiếm 21.71%). Các nhóm khác có từ 1 đến 2 loài. Từ kết quả cho thấy, khu vực vùng bờ biển Hải Phòng - Cát Bà có thành phần loài tương đối đa dạng, thành phần chủ yếu là Bivalvia, Gastropoda và Malacostraca chiếm khoảng 95,4% tổng số loài đã xác định. Chỉ số đa dạng sinh học ở khu vực vùng bờ Hải Phòng có chỉ số đa dạng sinh học ở mức độ thấp (H’ = 2,39).
#Hai Phong #Cat Ba #Zoobenthos #Bivalvia #Malacostraca #Crustacea #Gastropoda.
Áp dụng chỉ số sinh trưởng (MI) của Tuyến trùng (Nematoda) để đánh giá chất lượng nước theo mùa ở khe Đôi và kênh nước thải nuôi tôm tại Cần Giờ, TP Hồ Chí Minh
1024x768 Kết quả nghiên cứu cho thấy áp dụng chỉ số MI của quần xã Giun tròn (Tuyến trùng) đã đánh giá được chất lượng nước ở khe Đôi và kênh chứa nước thải nuôi tôm: khe Đôi có môi trường nước ổn định hơn trong cả hai mùa; kênh nước thải nuôi tôm đã bị ô nhiễm trong cả hai mùa, tuy nhiên có dấu hiệu phục hồi trong mùa khô. Normal 0 false false false /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;}
#chỉ số MI #Tuyến trùng #Cần Giờ #chỉ thị #mật độ #chất lượng nước #động vật đáy
14. Đánh giá tác dụng của viên nang cứng Dạ dày Tuệ Tĩnh trên mô hình loét dạ dày - tá tràng bằng cysteamin ở động vật thực nghiệm
Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá tác dụng của viên nang cứng Dạ dày Tuệ Tĩnh trên mô hình gây viêm loét dạ dày - tá tràng bằng cysteamin thực nghiệm. Chuột cống trắng được chia thành 5 lô: lô 1 (chứng sinh học) và lô 2 (mô hình) uống nước cất; lô 3 (esomeprazol 10 mg/kg), lô 4 (DDTT liều 0,252 g/kg) và lô 5 (DDTT liều 0,756 g/kg). Chuột ở các lô được uống nước cất, thuốc và mẫu thử liên tục trong thời gian 7 ngày. Vào ngày thứ 7, chuột được uống cysteamin liều 400 mg/kg. Đánh giá tỷ lệ chuột có viêm loét dạ dày - tá tràng, chỉ số loét trung bình, khả năng ức chế loét giữa các lô. Đánh giá đại thể và vi thể dạ dày - tá tràng tại thời điểm kết thúc nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu cho thấy cysteamin gây loét dạ dày tá tràng ở 100% chuột của lô mô hình. DDTT cả 2 mức liều có xu hướng làm giảm số chuột bị loét, số ổ loét trung bình, chỉ số loét. Tổn thương trên đại thể và vi thể cải thiện hơn so với lô mô hình. Như vậy, viên nang cứng Dạ dày Tuệ Tĩnh xu hướng có tác dụng chống loét dạ dày tá tràng do cysteamin gây ra trên động vật thực nghiệm.
#Dạ dày Tuệ Tĩnh #loét dạ dày - tá tràng #cysteamin #động vật thực nghiệm
Kết quả nghiên cứu bước đầu về thành phần loài động vật đáy (Zoobenthos) ở hồ Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam.
 Nghiên cứu về thành phần loài động vật đáy (Zoobenthos) ở hồ Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam được thực hiện trên 10 điểm thu mẫu. Kết quả phân tích mẫu vật đã xác định được 28 loài thuộc 21 giống, 14 họ, 5 lớp, 7 bộ. Trong đó; lớp Chân bụng (Gastropoda) có 10 loài thuộc 8 giống, 4 họ, 1 bộ; lớp Hai mảnh vỏ (Bivalvia) có 7 loài thuộc 4 giống, 4 họ, 3 bộ; lớp Giáp xác (Crustacea) với 7 loài thuộc 5 giống, 3 họ, 1 bộ; lớp Giun ít tơ (Olygochaeta) có 3 loài thuộc 3 giống, 2 họ, 1 bộ; lớp Giun nhiều tơ (Polychaeta) có 1 loài thuộc 1 giống, 1 họ, 1 bộ. Tính bình quân, mỗi bộ có 2 họ, 3 giống và 4 loài. Mỗi họ 1,5 giống, 2 loài và mỗi giống chứa 1,33 loài
#Động vật đáy #Chân bụng #Hai mảnh vỏ #giáp xác #Giun ít tơ #Giun nhiều tơ #hồ Phú Ninh
Tổng số: 31   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4